Địa chỉ: 368 Thành Thái, Tân Cang, Phước Tân, Biên Hòa, Đồng Nai

Định vị: Thiền viện Phước Sơn

Sáng lập: Hòa Thượng Giới Nghiêm

Trụ Trì: Hòa Thượng Bửu Chánh

SĐT Văn phòng: 0251.396.7237

Tà Kiến

Các vị Giáo chủ (Lục sư ngoại đạo) thời Đức Phật đã nắm giữ những quan điểm tà kiến như sau:

  1. Pūrana Kassapa – thuyết vô nghiệp (vô hành kiến). Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Pūrana Kassapa đã nói với con: “Này Ðại vương, tự làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến người gây sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chận đường cướp giựt, tư thông vợ người, nói láo, hành động như vậy không có tội ác gì. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên cõi đất thành một đống thịt, thành một chồng chịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác, mà gây ra tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy mà có phước báo”.

    2. Makkhali Gosāla – thuyết luân hồi tịnh hóa, theo lời kẻ khác (vô nhân kiến). Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Makkhali Gosāla đã nói với con: “Này Ðại vương, không có nhơn, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô nhân, vô duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô nhân, vô duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh. Không có tự tác, không có tha tác, không có nhân tác, không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài hữu tình, tất cả sanh vật, tất cả sinh loại, tất cả sinh mạng đều không tự tại, không lực, không tinh tấn. Chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi điều kiện bộ loại của chúng, bởi cá tánh của chúng. Chúng hưởng thọ khổ lạc, y theo sáu loại thác sanh của chúng. Có tất cả là một triệu bốn trăm ngàn chủng loại thác sanh, lại có thể sáu ngàn và có thêm sáu trăm nữa. Có năm trăm loại nghiệp và có năm nghiệp (theo năm căn), lại có ba nghiệp (về thân, khẩu, ý) lại có toàn nghiệp (thân và khẩu) và bán nghiệp (ý), có sáu mươi hai đạo, sau mươi hai trung kiếp, sáu giai cấp, tám nhân địa, bốn ngàn chín trăm sanh nghiệp, bốn ngàn chín trăm kẻ du hành, bốn ngàn chín trăm chỗ ở của loài Naga, hai nghìn căn, ba nghìn cảnh địa ngục, ba mươi sáu trần giới, bảy tưởng thai, bảy vô tưởng thai, bảy tiết thai (sanh từ đốt), bảy loài thiên, bảy loài người, bảy loài quỷ, bảy hồ nước, bảy pavutas (rừng hay hồ nhỏ) bảy trăm pavutas bảy vực thẳm, bảy trăm papatas (vực thẳm), bảy mộng, bảy trăm mộng, có tám trăm bốn mươi vạn đại kiếp, trong thời gian ấy kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau. Không có lời nguyện: với giới hạnh này, với kỷ luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ làm cho chín muồi những nghiệp chưa được thuần thục, hoặc trừ diệt những nghiệp đã thuần thục bởi những nhẫn thọ liên tục, không thể đo lường khổ và lạc với những vật đo lường, trong khi luân hồi không có giảm tăng, không có thặng dư, thiếu thốn. Ví như một cuộn chỉ được tung ra sẽ được kéo dài đến mức độ nào đó. Cũng như vậy, kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau”.


      3. Ajita Kesakambāli – thuyết đoạn diệt (vô hữu kiến). Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Ajita Kesakambàli đã nói với con: “Này Ðại vương, không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này đời khác và truyền dạy lại. Con người này do bốn đại hợp thành, khi mệnh chung, địa đại trở về trả lại cho địa giới, thủy đại trở về trả lại cho thủy giới, hỏa đại trở về trả lại cho hỏa giới, phong đại trở về trả lại cho phong giới, các căn nhập vào hư không. Bốn người gánh quan tài với người nằm trong quan tài là năm, gánh người chết mang đi đến chỗ hỏa táng, thốt ra những lời tán tụng, các xương trắng như màu bồ câu và những vật cúng dường trở thành tro bụi, chỉ có người ngu mới tán dương sự bố thí, lời nói của chúng trống không, giả dối, khi chúng chấp thuyết có sự sống. Kẻ ngu cũng như người hiền, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạn diệt, tiêu thất, không còn tồn tại sau khi chết. “


        Pakudha Kaccayana – trả lời một việc khác với một quan điểm khác. Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Pakudha Kaccàyana nói với con: “Này Ðại vương, có bảy thân không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá. Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng nhau. Chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau hoặc cả khổ và lạc. Bảy thân ấy là gì? Ðịa thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc và thứ bảy là mạng. Bảy thân này khômg bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá. Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng, chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau, hoặc cả khổ và lạc. Ở đây không có người giết hại, hoặc có người bị giết hại, người nghe hoặc người nói, người biết hoặc người khiến cho biết. Khi một ai dùng lưỡi kiếm sắc bén chém đầu, thời không có ai tước đoạt sanh mạng của ai cả, lưỡi kiếm chỉ rơi vào giữa bảy thân mà thôi”.


          5. Sanjaya Belathiputta – ngụy biện luận. Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Sanjaya Belatthiputta đã trả lời với con: “Nếu anh hỏi: “Có một thế giới khác hay không?” Nếu tôi nghĩ: “Có một thế giới khác”, tôi có thể trả lời với anh: “Có một thế giới khác”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: “Không có một thế giới khác phải không?” Nếu tôi nghĩ: “Không có một thế giới khác”, tôi có thể trả lời với anh: “Không có một thế giới khác”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế. Nếu anh hỏi tôi: “Không có một thế giới khác phải không?” (… như trên… ) “Cũng có và cũng không có một thế giới khác?”, “Cũng không có và cũng không không có một thế giới khác?”, “Có loại hữu tình hóa sanh?”, “Không có loại hữu tình hóa sanh?”, “Cũng có và cũng không có loại hữu tình hóa sanh?” “Cũng không có và cũng không không có loại hữu tình hóa sanh?”, “Có kết quả dị thục của các nghiệp thiện và ác?”, “Không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?”, “Cũng có và cũng không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?”, “Cũng không có và cũng không không có kết quả dị thục của những nghiệp thiện và ác?”, “Như Lai có tồn tại sau khi chết?”, “Như Lai không có tồn tại sau khi chết?”, “Như Lai có và không có tồn tại sau khi chết?”, “Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết?”. Anh hỏi tôi như vậy. Nếu tôi nghĩ : “Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết”. Tôi có thể trả lời : “Như Lai không có và cũng không không có tồn tại sau khi chết”. Nhưng tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế. Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế.”


            6. Nigantha Nātaputta – chế ngự bởi bốn loại cấm giới. Bạch Thế Tôn, khi được hỏi vậy, Nigantha Nàtaputta nói với con: “Này Ðại vương, một người Nigantha (Ni kiền tử) sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới. Này Ðại vương, thế nào là một người Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới? Này Ðại vương, một Nigantha sống gìn giữ đối với tất cả loại nước, gìn giữ đối với mọi ác pháp, sống tẩy sạch tất cả ác pháp và sống với ý chí gìn giữ đối với tất cả ác pháp. Này Ðại vương, như vậy một Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới. Này Ðại vương, vì một Nigantha sống chế ngự bởi bốn loại cấm giới, nên vị ấy được gọi là Gotatto (một vị đã đi đến đích), Yatatto (một vị đã điều phục tự tâm) và Thitatto (một vị đã an trú được tự tâm)”.Kinh Sa-môn quả (Sāmannaphala sutta)

              Tà kiến cố định (Niyatamicchādiṭṭhi)

              Đó là:

              1. Vô Hữu tà kiến (Natthidiṭṭhi): – Gọi là vô hành kiến: Là cho rằng “những hành động ác hay thiện đều không phải ác hay là thiện chi cả”

              1. Vô Nhân tà kiến (Ahetukadiṭṭhi): Có quan điểm nhận thấy rằng “tất cả loài Hữu Tình đang hiện hành hiện hữu ấy, cũng chẳng có nương nhờ bởi do một tác nhân nào cả.” Gọi là vô nhân kiến: Là cho rằng “chúng sinh tự nhiên sinh lên không do nguyên nhân nào cả, hay sự việc khởi lên chỉ là ngẫu nhiên”.

              1. Vô Hành tà kiến (Akiriyadiṭṭhi): Có quan điểm nhận thấy rằng “các hành động tạo tác của chúng sanh, cũng chẳng có thành tựu quả dị thục Phước – Tội nào cả.” Gọi là vô hữu kiến vì cho rằng “tội hay phước đều không có”chấp thủ rằng: “Không có quả của nghiệp”.

              1. Vô Hữu Kiến:

                Chánh Tạng Pāli ở bài Kinh Sa Môn Quả (Samaññaphalasutta) thuộc Phẩm Giới Uẩn (Sìlakhandhavagga) viết về cVô Hữu tà kiến như sau: “Natthi mahārāja dinnaṃ, natthi yitthaṃ, natthi hutaṃ, natthi sukata dukkhatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, natthi ayaṃ loko, natthi paro loko, natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapàtikā, natthi loke samaṇabrahmaṇà sammaggatā sammāpaṭi pannā, ye imañ ca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññà sacchikatvā pavedenti.”-

              Dịch Việt: “Nầy Đại Vương, không có xả thí, không có tế lễ hy sinh, không có tế tự, không có Quả Dị Thục của các Nghiệp Thiện – Ác, không có đời nầy, không có đời sau, không có Mẹ, không có Cha, không có loài Hữu Tình Hóa Sanh, ở trong đời không có các vị Sa Môn, các vị Bà La Môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời nầy đời khác và truyền dạy lại.”

              Giải thích ý nghĩa:

              1- Natthi dinnaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước-thiện bố-thí không có quả tốt, quả an-lạc.

              2- Natthi yiṭṭhaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước-thiện cúng-dường không có quả tốt, quả an-lạc.

              3- Natthi hutaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước-thiện đón rước, thỉnh mời không có quả tốt, quả an-lạc.

              4- Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: Tà-kiến thấy sai rằng: Tạo thiện-nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp, tạo ác-nghiệp rồi, không có quả khổ của ác-nghiệp.

              5- Natthi ayaṃ loko: Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới này nghĩa là không có chúng sinh tái-sinh đến cõi-giới này.

              6- Natthi paro loko:Tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi-giới khác nghĩa là chúng sinh chết là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.

              7- Natthi mātā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với mẹ, không có quả tốt, quả xấu.

              8- Natthi pitā: Tà-kiến thấy sai rằng: Làm phước, làm tội đối với cha, không có quả tốt, quả xấu.

              9- Natthi sattā opapātikā:Tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng sinh hoá-sinh lớn ngay tức thì, như chúng sinh trong cõi địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra, chư-thiên cõi dục-giới, phạm-thiên cõi sắc-giới.

              10- Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sammā-paṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này không có sa-môn, bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông thấy rõ biết rõ cõi-giới này, cõi-giới khác; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.

              Ngài Đại Chú Giải Sư Buddhaghosa trình bầy để ở trong phần Chú Giải của bài Kinh Sa Môn Quả nói rằng “Vipākaṃ paṭibāhantenāpi kammaṃ paṭibāhitaṃ hotaṃ”- Dịch nghĩa là: “Một khi đã có sự phản bác về quả báo thì cũng được gọi là phản bác luôn cả về Nghiệp Lực, mà đã coi như đó là tác nhân làm trổ sinh ra quả báo vậy.”


                II. Vô Nhân Kiến:

                Người có quan điểm thuộc thể loại Vô Nhân Kiến ấy, là có sự nhận thấy rằng tất cả các loài Hữu Tình đang được đón nhận sự khổ đau hoặc an lạc đi nữa, chẳng do nguyên nhân nào cả, và tất cả đều tự hiện hành hết cả.

                Có Chánh Tạng Pāli của bài Kinh Sa Môn Quả (Samaññaphalasutta) thuộc Phẩm Giới Uẩn (Sìlakhandhavagga) đã có trình bầy đến quan điểm lầm lạc thuộc thể loại Vô Nhân Kiến nói rằng: “Natthi mahārāja hetu natthi paccayo sattānaṃ saṃkilesāya, ahetu apaccayā sattā saṃkilissanti natthi hetu natthi paccayo sattānaṃ visuddhiyā, ahetū apaccayā sattā visujjhanti”- Dịch nghĩa là: “Nầy Đại Vương, vô hữu nhân, vô hữu duyên, các loài Hữu Tình bị nhiễm ô; vô nhân, vô duyên, các loài Hữu Tình bị nhiễm ô. Vô hữu nhân, vô hữu duyên, các loài Hữu Tình được thanh tịnh; vô nhân, vô duyên, các loài Hữu Tình được thanh tịnh.”

                Do vậy, Ngài Đại Chú Giải Sư Buddhaghosa mới trình bày để ở trong phần Chú Giải của bài Kinh Sa Môn Quả nói rằng “Natthi hetūti vadanto ubhayaṃ paṭibāhati”- Dịch nghĩa là: “Người đã nói rằng hoặc đã nhận thấy rằng sự Khổ – Lạc của tất cả loài Hữu Tình ấy chẳng có dính líu liên hệ bởi do nguyên nhân. Điều nầy chẳng khác là việc phản bác cả về nguyên Nhân và Quả Báo.”


                III. Vô Hành Kiến:

                Người có quan điểm thuộc thể loại Vô Hành tà kiến ấy, là có sự nhận thấy rằng tất cả các loài Hữu Tình có làm Thiện – làm ác đi nữa, thì cũng chẳng có Tội – và cũng chẳng có Phúc. Làm cũng chỉ gọi là có làm ngần ấy thôi.

                Có Chánh Tạng Pāli của bài Kinh Sa Môn Quả (Samaññaphala sutta) thuộc Phẩm Giới Uẩn (Sìlakhandhavagga) đã có trình bầy đến quan điểm lầm lạc thuộc thể loại Vô Hành Kiến nói rằng: “Karoto kho mahārāja kārayato, chindato chedāpayato, pacato pācāpayato, socayato socāpayato, kilamato kilamàpayato, phandato phandāpayato, pāṇamatipātāpayato, adinnaṃ ādiyato, sandhiṃ chindato, nillopaṃ harato, ekàgàrikaṃ karoto, paripanthe tiṭṭhato, paradàraṃ gacchato, musà bhaṇato, karoto na karīyati pāpaṃ”- Dịch nghĩa là: “Nầy Đại Vương, tự làm hay khiến người làm, tự chém giết hay khiến người chém giết, tự đốt nấu hay khiến người đốt nấu, tự gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, tự gây áo não hay khiến người gây áo não, tự mình gây sợ hãi hay khiến người gây sợ hãi; sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà người mà đi vào cướp bóc, tư thông vợ người, vọng ngữ, những hành động như vậy chẳng có tội ác chi cả.”

                Giải thích rằng: “Người có quan điểm lầm lạc thuộc thể loại Vô Hành Kiến, nhận thấy rằng hành động tạo tác Thiện – Ác của tất cả loài Hữu Tình, cho dù là tự mình làm hoặc sai bảo cho người khác thực hiện đi nữa, thì cũng chẳng được gọi là có Tội – Phúc. Việc hành hung bằng cách tùng xẻo các bộ phận của người khác, cho dù là tự mình làm hoặc sai bảo cho người khác cắt chặt đi nữa, thì cũng chẳng có gọi là Tác Hành Ác chi cả. Việc trừng phạt người khác bằng cách phạt vạ bắt nộp tiền, hoặc bằng cách đánh đòn làm cho họ phải bị thụ lãnh sự thống khổ, cho dù là tự mình làm hoặc sai bảo cho người khác thực hiện đi nữa, thì cũng chẳng có gọi là Tác Hành Ác chi cả. Việc trộm lấy tài sản của cải vật chất của người khác, đã làm cho họ phải bị thụ lãnh sầu bi ưu não khổ tâm buồn lòng, cho dù là tự mình làm hoặc sai bảo cho người khác thực hiện đi nữa, thì cũng chẳng có gọi là Tác Hành Ác chi cả. Việc tự trừng phạt bản thân cho phải khổ sở, có việc nhịn cơm hoặc chịu mắc vào lao tù; hoặc hướng dẫn cho người khác tín cẩn mình để cho thực hiện việc tự trừng phạt bản thân cho phải khổ sở cũng tương tự như mình, thì cũng chẳng có gọi là Tác Hành Ác chi cả. Tự bản thân có sự bồn chồn lo lắng, buồn phiền khổ tâm, hoặc làm cho người khác phải bị bồn chồn lo lắng, buồn phiền khổ tâm, thì cũng chẳng có gọi là Tác Hành Ác chi cả. Tự bản thân với việc sát hại loài Hữu Tình, hoặc sai bảo cho người khác sát hại, thì cũng chẳng gọi là sát hại loài Hữu Tình, cũng chẳng có Tội Ác chi cả. Tự bản thân với việc đục tường, khoét vách trộm đạo, hoặc sai bảo cho người khác đục tường, khoét vách trộm đạo, cũng chẳng có Tội Ác chi cả. Tự bản thân với việc tranh cướp tài sản, hoặc sai bảo cho người khác tranh cướp, cũng chẳng có Tội Ác chi cả. Tự bản thân với việc xâm phạm vào nhà ở của người khác rồi tranh cướp tài sản, hoặc sai bảo cho người khác xâm phạm, cũng chẳng có Tội Ác chi cả. Tự bản thân với việc chực chờ rình rập tranh cướp tài sản của người khác theo đạo lộ, hoặc sai bảo người khác chực chờ rình rập tranh cướp tài sản của họ, cũng chẳng có Tội Ác chi cả. Việc tính dục tà hạnh với vợ của người khác, cũng chẳng là Tội Ác. Việc nói vọng ngữ, cũng chẳng có Tội Ác chi cả. Tạo tác các việc bất thiện, như đã vừa đề cập đến tại đây, cho dù là tự mình làm hoặc sai bảo cho người khác thực hiện đi nữa, với những thể loại nầy cũng chẳng có gọi là Tác Hành Ác chi cả.”

                Sự nhận thấy ở phần Vô Hành tà kiến, là có quan điểm phản bác về Nghiệp Lực, đó chính là chủ tác nhân. Vì thế, việc phản bác về Nghiệp Lực đây, thì cũng chẳng khác chi phản bác luôn cả Quả Báo của Nghiệp Lực đã được hoàn thành ở trong xác thân. Do vậy, Ngài Đại Chú Giải Sư Buddhaghosa mới trình bầy để ở trong phần Chú Giải của bài Kinh Sa Môn Quả nói rằng: “Kammaṃ paṭibāhantenāpi vipāko paṭibāhito hoti”- Dịch nghĩa là: “Ngay khi phản bác về hành động tạo tác Tội – Phước, thì cũng chẳng khác chi phản bác luôn cả Quả Báo của hành động tạo tác Tội – Phước ấy vậy.”

                  Phân tích thêm: Tam Kiến

                  Trong cả Tam Kiến ấy, hiện hữu với ba vị Giáo Trưởng (Gaṇācariya) thuộc Dị Giáo Phái, đó là Giáo Trưởng Ajita Kesakambali có quan điểm thuộc thể loại Vô Hữu Kiến; Giáo Trưởng Makkhali Gosāla có quan điểm thuộc thể loại Vô Nhân Kiến; và Giáo Trưởng Puraṇa Kassapa có quan điểm thuộc thể loại Vô Hành Kiến. Sự thấy sai chấp lầm (Tà Kiến) của cả ba vị Giáo Trưởng nầy, là những loại Tà Kiến có thực tính nhất định phải trổ sanh quả báo ở trong Địa Ngục Địa Giới theo tuần tự từ ở nơi Tâm Tử (Cuticitta) mà chẳng có khoảnh khắc xen kẽ, vì lẽ các loại Tà Kiến của cả ba vị Giáo Trưởng nầy đã có sự chấp thủ dính mắc rất nhiều. Ngay đến Đức Phật Ngài đã có lập ý, bằng với rất nhiều phương thức, bản thân Ngài đã chia sẻ Chánh Pháp đến các nhóm ngoại đạo, đặng cho buông bỏ những loại Tà Kiến ấy đi, thế nhưng kết quả lại chẳng thành. Đối với các nhóm môn đồ của cả ba vị Giáo Trưởng nầy, lúc thuở ban đầu thì các loại Tà Kiến ấy hãy còn non yếu. Thế rồi thời gian tiếp đến, một khi đã có việc thường luôn đọc đi đọc lại với cả việc thẩm sát ở trong nội dung lời giảng dạy của vị Thầy Giáo Trưởng, và đã có sự mãn ý, chấp chặt vào trong các lời giảng dạy ấy.

                  Tà Kiến là Tác Nhân cho Thập Ác Hạnh khởi sanh

                  Người có Tà Kiến cố định, vì không tin vào nghiệp và quả của nghiệp, nghĩ rằng không có tội phước, chính niềm tin lầm lạc này sẽ dẫn họ đi thực hiện các Ác Hạnh. Họ có thể làm các việc ác mà chẳng e sợ chút nào về những kết quả khổ đau. Có thể, có một vài loại Ác Hạnh mà họ không làm chỉ vì e ngại về quyền lực Pháp Luật của Nhà Nước thôi. Với lý do như vậy, việc hành xử của người chấp thủ tà kiến cố định thường rơi vào đạo lộ Ác Hạnh, có thể là: Thân Ác Hạnh, Ngữ Ác Hạnh và Ý Ác Hạnh.

                  Nếu người mang tà kiến cố định làm thiện nghiệp, thiện nghiệp của họ có xu hướng việc tầm cầu danh thơm tiếng tốt, khoe mẽ, mong cầu với lợi ích cá nhân, hoặc do xúc tác của phiền não… Thiện Nghiệp như vậy chẳng phải thuộc thể loại Thiện Nghiệp Lực thanh cao, mà đó chỉ là loại Thiện Nghiệp Lực thông thường, vì lẽ chẳng được thực hiện với trí tuệ hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp (Kammassakatañāṇa), mà lại được thực hiện với mãnh lực của Ái (Tañhā), Mạn (Māna), Kiến (Diṭṭhi), vì thế việc sẽ được tục sinh trở lại làm Người của nhóm người nầy mới coi như đã là thất sách vậy.


                  Sưu tập về Tà Kiến

                  Định nghĩa:

                  Tà Kiến (micchādiṭṭhi): Kinh giải thích rằng tâm sở Si khiến ta không thấy những khía cạnh Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Từ đó tâm sở Tham mới có cơ hội làm công việc ưa thích hay nắm chặt và tâm sở Tà Kiến thì ghép các khái niệm Thường, Đoạn vào đó. Đây là lý do tại sao tất cả các Tà Kiến đôi khi được gọi chung là Thân Kiến (sakkāyadiṭṭhi) hay Ngã Kiến (attadiṭṭhi), vốn chỉ được chấm dứt hẳn khi một người chứng Sơ quả (sotāpattimagga).

                  Tà Kiến Cố Định (niyatamicchādiṭṭhi)

                  Trọng Nghiệp (garukakamma): Gồm những nghiệp thiện ác có khả năng mãnh liệt không thể ngăn chận được bằng bất cứ một nghiệp nào khác và chắc chắn sẽ cho Quả Dị Thục ngay đời kế tiếp. Trọng nghiệp bất thiện gồm Tà Kiến Cố Định (niyatamicchādiṭṭhi) và 5 tội đại nghịch còn gọi là Nghiệp vô gián (pañcānantariyakamma) là giết cha (pitughāta), giết mẹ (matughāta), giết A-lahán (arahattaghāta), chia rẽ tăng chúng (sanghabhedana) và làm thân Phật bầm máu (lohituppāda).

                  Tà Kiến trong 4 Thủ

                  Sắc do Thủ (upādinnarūpa) ở đây chỉ cho 18 Sắc Nghiệp vốn hình thành từ Tham Ái (taṇhā) và Tà Kiến (diṭṭhi) đời trước. 10 Sắc còn lại gọi là Sắc Phi do Thủ (anupādinnarūpa).

                  Kiến Thủ (diṭṭhupādāna): Chi pháp là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà (lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).

                  Giới Cấm Thủ (sīlabbatupādāna): Chi pháp là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà (lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).

                  Ngã Chấp Thủ (attavādupādāna) là sự chấp chặt trong ý niệm “Tôi, của tôi”. Chính là 20 loại Thân Kiến (sakkāyadiṭṭhi). Thủ này là sự chấp chặt quan điểm Ngã (ahankāra) và Ngã Sở (mamaṅkāra) như có tôi, của tôi, có hắn, của họ. Chi pháp là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà (lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).

                  Tà Kiến trong 4 Lậu: Kiến Lậu (diṭṭhāsava) là một trong tứ lậu. Là tâm sở Tà Kiến (diṭṭhi) trong 4 tâm tham đi chung Tà Kiến (lobhamūladiṭṭhigatasampayuttacitta) trong trường hợp Thường Kiến và Đoạn Kiến, kể rộng có 62 Tà Kiến (xem lại kinh Phạm Võng trong Trường Bộ Kinh). Cốt lõi của Tứ Lậu chỉ có 3 thứ phiền não là Tham, Tà Kiến và Si.

                  Tà Kiến trong 4 Kết: Giới Cấm Thủ (sīlabbataparāmāsa): Chi pháp là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà (lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta). Cực Đoan Kiến (idaṃsaccābhinivesa): Chi pháp cũng là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà (lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).

                  Tà Kiến trong 7 Tiềm miên: Kiến tiềm miên (diṭṭhānusaya): Là tất cả những suy nghĩ sai lầm về các pháp, gom chung là Thường Kiến và Đoạn Kiến. Chi pháp là tâm sở Tà Kiến (micchādiṭṭhi) trong 4 tâm tham hợp tà (lobhamūladiṭṭhisampayuttacitta).

                  Nhu Tánh, Nhu Tâm (kāyamudutā, cittamudutā): Là trạng thái linh hoạt, ôn nhu, không cứng cỏi (akakkhaḷatā), không ngoan cố (akathiṇatā) trong tâm thiện, giúp tâm khỏi bị Tà Kiến và Kiêu Mạn. Hai tâm sở này hỗ trợ cho tâm sở Tín và Vô Sân.

                  English Tiếng Việt