Hòa Thượng Thiền Sư Kim Triệu sinh ngày 05/12/1930 tại làng Phương Thạnh, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Thân mẫu Ngài là một Phật tử thuần thành nên từ thời ấu thơ Ngài đã gần gũi với nếp sống nhà Chùa.
gài mất mẹ năm mới lên 9 tuổi và 3 năm sau, Ngài lại mất cha.
Năm 14 tuổi, Ngài vào ở trong chùa. Năm 17 tuổi, Ngài thọ giới Sa Di ở chùa Bình Phú. Năm 1949, Ngài xuất gia Tỳ Kheo ở chùa Phương Thạnh (Trà Vinh), pháp hiệu là Khippapañño thường gọi là Sư Kim Triệu. Từ năm 1950 đến 1963: Ngài tu học tại chùa Giác Quang, chùa Kỳ Viên, chùa Tam Bảo (với Ngài Giới Nghiêm), Chùa Bửu Quang.
Năm 1964, Ngài được Viện Đại Học Phật Giáo Nalanda, Ấn Độ, cấp học bổng du học. Năm 1970, Ngài đỗ bằng Pāli Achariya (Sư Phạm môn Pāli), bằng B.A. Phật Học và bằng M.A. Pāli.
Về thiền tập, từ năm 1967 đến 1980, Ngài có cơ duyên thực tập Thiền Minh Sát Vipassanā tại Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện dưới sự hướng dẫn của các thiền sư nổi tiếng như Ngài Munindra, Ngài Goenka, Bà Dipa Ma, và Ngài Taungpulu.
Năm 1980, Ngài sang Yangon, Miến Điện, thực tập tích cực với Đại Lão Hòa thượng Thiền Sư Mahāsi. Cũng trong khoảng thời gian trên, Ngài tích cực hoằng pháp, tổ chức các khóa thiền ở Nepal, Ấn Độ.
Năm 1981, Ngài được Hội Phật Giáo Việt Mỹ ở Washington D.C. mời sang Hoa Kỳ hoằng pháp và lưu ngụ tại chùa Kỳ Viên. Tại đây, Ngài mở các khóa thiền hằng năm. Ngài cũng vân du khắp nơi trên nước Mỹ và các nước châu Âu, châu Úc, châu Á để dạy đạo.
Năm 1988, Phật tử Nam California cung thỉnh Ngài thành lập Thích Ca Thiền Viện ở Riverside.
Năm 1997, Ngài trở lại Yangon học pháp Quán Tâm tại Trung tâm của Ngài Hòa thượng Shwe Oo Min.
Năm 2007, Ngài xây dựng một thiền viện ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ.
Cũng từ 2007, Trung tâm Insight Meditation Society (IMS), Boston, thường thỉnh Ngài đến dạy thiền.
Năm 2008, Ngài chính thức trùng tu Thiền Viện Tâm Pháp ở Bumpass, Virginia thành một trung tâm thiền.
Đến nay, dù đã ngoài 90 tuổi, sức khoẻ có phần suy giảm, Ngài vẫn không ngừng phục vụ cho Đạo Pháp, tiếp tục giảng dạy nhiều nơi trên thế giới. Với kinh nghiệm thực chứng, đạo hạnh thanh cao, cộng với sự hướng dẫn tận tụy, Ngài đã giúp Tăng Ni và Phật tử hưởng nhiều lợi lạc của Giáo Pháp, để lại trong tâm người có duyên lành niềm kính mến vô bờ.